Hán phục trong Lương Trần Mỹ Cẩm của Winwin (NCT) gây tranh cãi vì giống Hàn phục

Lương Trần Mỹ Cẩm lấy bối cảnh nhà Minh, một triều đại ngoại giao, giao thương rất nhiều với thời Triều Tiên (Joseon) của Hàn. Một số Hán phục (Hanfu) trong phim được khán giả chỉ ra đang lai căng với Hàn phục (Hanbok). Thực hư ra sao?

bzvn-luong-tran-my-cam-winwin-dong-tu-thanh

Một trong số những tạo hình Hán Phục của Đổng Tư Thành/Winwin (NCT) trên phim trường Lương Trần Mỹ Cẩm. Ảnh: GELATO

Diễn viên Đổng Tư Thành, hay còn được biết đến với nghệ danh Winwin, thành viên của nhóm nhạc NCT, đang tham gia quay hình cho bộ phim cổ trang dự kiến phát sóng vào năm 2026, Lương Trần Mỹ Cẩm (良陈美锦). Anh vào vai thế tử Diệp Hạn, có xuất thân cao quý và nhận chức Binh bộ Thượng thư trong triều đình.

Nhờ tạo hình đẹp lẫn sự nghiệp ở hai nước, vai diễn của Đổng Tư Thành đang nhận được sự quan tâm lớn từ khán giả Trung, Hàn. Cũng vì thế mà trang phục của anh cùng một số diễn viên nam khác trong phim cũng đang được bàn tán, trong đó, có những ý kiến chỉ ra Hán phục (Hanfu) thời Minh trong phim có vài điểm tương đồng với Hàn phục (Hanbok) thời Triều Tiên (Joseon).

Tuy chưa có tranh cãi lớn, nhưng câu chuyện của Hàn phục và Hán phục đã luôn là đề tài xung đột giữa cư dân mạng của hai nước Hàn – Trung, bắt nguồn từ một loạt game, phim cổ trang Trung trong giai đoạn năm 2020-2021. Cho đến nay, trên khắp các nền tảng mạng xã hội như Threads, vẫn luôn xuất hiện những người dùng Hàn Quốc cho rằng một số món đồ Hán phục hiện tại có trên mạng xã hội, các sàn thương mại điện tử,… có mượn nhiều yếu tố Hàn phục.

Nhân dịp này, hãy nói về mối tương quan giữa Hàn Phục và Hán Phục, qua đó khám phá thời trang trong vai trò giao thoa văn hóa giữa các quốc gia, đồng thời nhắc đến sự quan trọng của việc truyền tải đúng sự thật lịch sử trong các bộ phim, đặc biệt là phim cổ trang – cả hai thể loại rất thịnh hành ở Hàn Quốc lẫn Trung Quốc.

Nguồn gốc mối tương quan giữa Hàn Phục và Hán Phục

Trong giai đoạn 918 – 1392 sau Công Nguyên, Hàn Quốc lúc bấy giờ là Vương quốc Cao Ly (Goryeo). Nhà Nguyên, kế tục Đế quốc Mông Cổ, khi cai trị Trung Quốc trong giai đoạn 1271 – 1368, biến Cao Ly thành thuộc quốc. Người Cao Ly, trong đó có hoàng thất, phải liên hôn, thường xuyên đến Trung Quốc cũng như cống nạp vật phẩm. Những cuộc trao đổi người và của cải như vậy, tất yếu, dẫn đến sự giao hòa văn hóa và phong tục.

“Những quan lại, quý tộc ở kinh đô, ai có được phụ nữ Cao Ly thì mới được xem là danh gia vọng tộc. Từ thời Chí Chính (1333) trở đi, những người hầu hạ, sai vặt trong cung phần lớn đều là nữ nhân Cao Ly. Vì vậy, y phục, giày mũ, đồ dùng khắp nơi trong thiên hạ đều bắt chước theo phong cách Cao Ly.”

– Biên niên sử Trung Quốc Tục tư trị thông giám (續資治通鑒) của Tất Nguyên ghi nhận

Kế đó, khi Trung Quốc bước vào giai đoạn cai trị của nhà Minh (1368 – 1644) và Hàn Quốc bước vào triều đại Triều Tiên (hay còn gọi là thời Joseon, 1392 – 1910), hai quốc gia giữ mối quan hệ ngoại giao, giao thương mật thiết. Chính vì vậy mà trang phục truyền thống của hai quốc gia có nét tương đồng vì ảnh hưởng lẫn nhau.

Có những phụ kiện trong trang phục của các nho sĩ Triều Tiên như Võng cân (Manggeon) được xác nhận bởi các sử gia rằng chúng xuất phát từ nhà Minh. Ngược lại, có Mã vĩ quần (Balgun (발군) trong tiếng Hàn và Maweiqun (馬尾裙) trong tiếng Trung) từ Triều Tiên du nhập vào Trung Quốc. Ngoài ra, còn có thứ gọi là phong cách Cao Ly Dương – Goryeoyang, ảnh hưởng đến Hán phục.

“Mã vĩ quần bắt nguồn từ Triều Tiên, sau đó lan truyền vào kinh đô Trung Hoa. Người dân kinh thành mua về mặc, nhưng lúc đầu chưa ai biết dệt. Những người đầu tiên mặc loại váy này chỉ có thương nhân giàu có, công tử quý tộc và kỹ nữ. Về sau, nhiều võ quan cũng bắt đầu mặc, khiến kinh thành mới xuất hiện những người chuyên dệt và buôn bán loại trang phục này. Từ đó, bất kể sang hèn, người mặc ngày càng nhiều. Đến cuối niên hiệu Thành Hóa, quan lại trong triều cũng phần đông mặc loại váy này.

Nhìn chung, người mặc váy đều để phần thân dưới phồng rộng, chỉ nhằm mục đích khoe vẻ đẹp bề ngoài. Loại trang phục này được coi là yêu phục, đến đầu niên hiệu Hoằng Trị (1487 – 1505) mới bắt đầu bị cấm.”

– Thục viên tạp ký (菽園雜記) của Lục Dung

Nhà Minh kết thúc vào năm 1644, trong khi thời đại Triều Tiên kéo dài đến năm 1910, nên từ du nhập một số phụ kiện, Triều Tiên đã tiếp thu, cải biến độc lập những trang phục của họ, đặc biệt là từ giai đoạn Trung – Hậu kỳ Triều Tiên. Tương tự, khi thời trang Triều Tiên du nhập vào nhà Minh thì cũng có nhiều yếu tố được địa phương hoá.

Lương Trần Mỹ Cẩm có mượn yếu tố Hàn Phục đưa vào Hán Phục?

Võng cân Triều Tiên (Manggeon) và Võng cân nhà Minh (Wangjin)

bzvn-han-phuc-hanfu-hanbok-winwin-nct-dong-tu-thanh-luong-tran-my-cam (3)

Nhân vật trong phim đeo Võng cân. Ảnh: Twitter/X

Võng cân (Manggeon – 망건) của Hàn Quốc có nguồn gốc từ Võng cân (Wangjin – 網巾) thời nhà Minh, theo sách Tri thức thường thức về Joseon của sử gia Choi Nam Seon.

Cả hai đều có mục đích để giữ nếp tóc cho nam giới, nhưng võng cân thời nhà Minh làm bằng lụa tơ tằm, gần như chỉ để lộ tóc búi ở chóp.

bzvn-wangjin-vong-can-hanfu

Trên cùng là hình ảnh của chiếc võng cân (wangjin) trong Hán phục. Ảnh: Silk Roads World Heritage

Võng cân trên Hàn phục thì sau một thời gian tương đồng với nhà Minh về chất liệu lẫn kiểu dáng đã bỏ phần trên để trở thành một dải mảnh trước trán, làm từ lông đuôi ngựa lấy từ đảo Jeju hoặc tỉnh Pyeongan – một sáng kiến của riêng người Triều Tiên.

Một điểm khác biệt nữa nằm ở phần thái dương của món phụ kiện. Võng cân Triều Tiên có chiếc khoen xâu dây gọi là quán tử (gwanja) dễ nhìn để phân biệt phẩm cấp của các quan lại. Quán tử được chia thành các loại như hoàn ngọc (khoen tròn bằng ngọc), hoàn kim (khoen tròn bằng vàng), khắc kim (vàng chạm khắc hoa văn), khắc ngọc (ngọc chạm khắc hoa văn), v.v.

bzvn-vong-can-manggeon-hanbok

Hiện vật võng cân Triều Tiên (manggeon) năm 1880 và ống đựng (manggeontong) năm 1780. Manggeon trong hình có gắn ngọc poongjam, nhưng trên thực tế không nhất thiết chiếc nào cũng phải gắn. Ảnh: KOREA HERITAGE SERVICE.

Từ những tài liệu trên, cư dân mạng Hàn và Trung đã luôn tranh cãi về việc những chiếc võng cân dài mảnh dùng trong phim cổ trang Trung Quốc hiện tại có phải đang sao chép, vì trong lịch sử ghi nhận một hình dáng võng cân nhà Minh rất khác.

Đáp trả, có những cư dân mạng Trung chỉ ra biến thể 懒收网巾 – lanshou wangjin (tạm dịch: võng cân lười thu) xuất hiện ở cuối thời nhà Minh, khá tương đồng với võng cân Triều Tiên khi cũng là dạng dải mảnh. Điểm khác biệt nằm ở chỗ võng cân Triều Tiên có hình chữ nhật, còn lanshou wangjin rộng ở giữa và hẹp dần về hai đầu.

bzvn-han-phuc-hanfu-hanbok-winwin-nct-dong-tu-thanh-luong-tran-my-cam (1)

Như chiếc võng cân mà Đổng Tư Thành đang đeo trên phim trường Lương Trần Mỹ Cẩm thì được cư dân mạng Trung gọi là lanshou wangjin. Ảnh: CloudIntoDream

3 lý do khiến phim Nuốt vàng (Dear Hongrang) trở thành phim hot của Netflix

Võng cân Triều Tiên (manggeon) thì là một dải mảnh hình chữ nhật, có trang trí ở thái dương rất dễ nhìn. Ảnh: Netflix

Tuy nhiên, không ít dẫn chứng về lanshou wangjin nhà Minh được lan truyền trên mạng thực chất là chiếc võng cân người Việt dưới triều Nguyễn, hoặc từ tranh vẽ Nhật khó xác nhận quốc tịch người đeo. Chính vì vậy mà cuộc tranh cãi liệu võng cân mảnh ở các phim cổ trang Trung hiện tại có sao chép phim cổ trang Hàn hay không rất khó ngã ngũ.

Vậy lanshou wangjin có thực sự tồn tại? Trong Địa chí năm thứ 2 niên hiệu Cảnh Tông của Thế Tông Thực Lục (khoảng năm 1452) có ghi chép rằng Triều Tiên từng tặng võng cân lông ngựa cho sứ thần nhà Minh, và món này thậm chí còn được xuất khẩu ngược sang nhà Minh, đây có thể là khởi đầu cho sự xuất hiện của những chiếc võng cân mảnh hơn ở cuối triều Minh.

Song, có rất ít sử sách ghi nhận khái niệm lanshou wangjin vì thời kỳ nhà Thanh kế đó đã hủy hoại rất nhiều sử liệu liên quan đến nhà Minh, nên việc xác minh cũng khó.

bzvn-vong-can-luoi-thu

Những người đeo võng cân lưới xuất hiện trong cuốn Thiên công khai vật của Tống Ứng Tinh xuất bản năm 1637 tức cuối thời nhà Minh, là một trong những dẫn chứng hiếm hoi có nguồn Trung về lanshou wangjin. Tuy nhiên bản chất tranh vẽ không rõ nét nên rất khó để khẳng định hình dạng món phụ kiện. Ảnh: thequoo

Bộ phim Nữ Thần Y (The Imperial Doctress, 2016) của Trung Quốc, một bộ phim được khen ngợi về tính chính xác lịch sử lấy bối cảnh trung kì triều Minh, đã xuất hiện một loại võng cân có lược bỏ bớt phần trên. Nhưng so với võng cân trong Lương Trần Mỹ Cẩm lẫn võng cân Triều Tiên thì vẫn còn to hơn nhiều. Rất có thể sau này chiếc võng cân tiếp tục được làm nhỏ lại, nhưng vì không có bằng chứng xác thực, nên những cuộc tranh luận về việc phim cổ trang Trung có võng cân lai căng thì hầu như không có hồi kết.

bzvn-vong-can-han-phuc

Nhân vật bên trái đeo võng cân trong trang phục nhà Minh thời Minh Anh Tông (1435 – 1449; 1449 – 1457). Ảnh: Dragon TV

Ngọc lộ lạp (Okrorip) của Triều Tiên và đại mạo (Damao) của nhà Minh

Một hình ảnh khác nhận được sự chú ý trên phim trường Lương Trần Mỹ Cẩm chính là hình ảnh nhân vật Diệp Hạn đội đại mạo (Damao) có gắn ngọc ở chóp. Kiểu dáng mũ này tiếp tục nhận được những lời bàn tán liên hệ với một số dạng mũ ở Triều Tiên.

bzvn-han-phuc-hanfu-hanbok-winwin-nct-dong-tu-thanh-luong-tran-my-cam (2)

Ảnh: Twitter/X

Kiểu cách đại mạo đính ngọc của nam diễn viên phần nào đó có thể gợi nhớ đến nón ngọc lộ lạp (옥로립) dành cho các quan chức cấp cao Triều Tiên với những ai chưa tìm hiểu sâu về Hán phục và Hàn phục.

Kiểu ngọc lộ lạp dễ gây nhầm lẫn là loại gắn ngọc trên bát lạp (Balrip) ở sơ kì Triều Tiên có đỉnh tròn và thấp hoặc gắn trên trung lạp (Joongrip) có đỉnh bo tròn nhưng cao hơn ở sơ-trung kỳ Triều Tiên. Đại mạo là các lạp đều là dạng chóp cao phù hợp với lệ búi tóc cho nam giới hai nước, đều có gắn dây trang trí từ các loại châu như ngọc, mã não, thủy tinh.

bzvn-okrorip

Ngọc Lộ Lạp (Okrorip). Ảnh: Korean Heritage Search

bzvn-non-han-quoc

Trái: Nón Trung lạp năm 1537 trong chân dung của nhà thơ Lee Hyun Bo; Phải: Chân dung học giả Kim Jin đội Trung lạp. Sau này, nón phát triển thành Hắc Lạp hay Mũ Gat phổ biến cuối thời Triều Tiên xuất hiện nhiều trên phim cổ trang Hàn. Ảnh: Korean Heritage Search

Lần về nguồn gốc, đại mạo bắt nguồn từ nón Boli kiểu Mông Cổ từ thời nhà Nguyên, kế thừa và cải biến bởi nhà Minh. Bát lạp (Balrip) cũng chịu ảnh hưởng từ nhà Nguyên, sau này cũng góp phần phát triển thêm một số dạng mũ khác vào Trung – Hậu kì Triều Tiên, phần nào lý giải cho sự tương đồng.

Tuy nhiên, đây là hai phụ kiện khác nhau rất rõ rệt ngay từ phần ngọc đính trên đỉnh mũ và tạo hình trong Lương Trần Mỹ Cẩm đã tôn trọng sự thật lịch sử về nón đại mạo.

Đáp hộ của Triều Tiên và áo giáp Zhaojia nhà Minh

bzvn-han-phuc-hanfu-hanbok-winwin-nct-dong-tu-thanh-luong-tran-my-cam (4)

Đổng Tư Thành trên phim trường Lương Trần Mỹ Cẩm, hiện đang bấm máy, dự kiến phát sóng năm 2026. Anh mặc áo giáp zhaojia, đội đại mạo. Ảnh: Twitter/X

Zhaojia (罩甲) của nhà Minh là áo giáp. Tuy gọi là áo giáp nhưng zhaojia cũng có thể được làm từ vải, mặc như trang phục hàng ngày bên ngoài trực lĩnh. Thân trước và thân sau xẻ tà để thuận tiện cho nam nhân mặc khi săn bắn, cưỡi ngựa.

Trang phục sẽ không có gì gây tranh cãi nếu không nằm ở phần tay áo. Trong rất nhiều tranh vẽ, tài liệu lưu lại về zhaojia, lớp khoác ngoài của trang phục này vốn không có tay áo. Kiểu tay áo đến cùi chỏ, xoè rộng mà nhân vật Diệp Hạn đang mặc rất dễ gợi nhớ đến những chiếc áo đáp hộ sơ kì Triều Tiên (답호).

Dẫu rằng chính áo đáp hộ Triều Tiên cũng du nhập nhà Nguyên, và nhà Minh cũng có phiên bản đáp hộ của riêng họ (褡護), nhưng thêm chi tiết tay vào zhaojia mà không có tài liệu lịch sử làm minh chứng thật sự là một bất cập cho Lương Trần Mỹ Cẩm.

bzvn-zhaojia

Zhaojia trong những tài liệu lịch sử không có tay áo dài đến cùi chỏ, phồng lớn. Ảnh: Wangchao

bzvn-dapho-korea

Kiểu tay áo đó lại thường thấy hơn ở áo đáp hộ của Triều Tiên. Trái là đáp hộ ở sơ kì Triều Tiên cuối thế kỷ 14, cũng là giai đoạn bắt đầu nhà Minh. Phải là đáp hộ thời hậu kỳ Triều Tiên. Ảnh: Sách The Story Of Hanbok (2018)

Đảm bảo sự sát sao với lịch sử là cái khó cho các đoàn phim cổ trang

Phim ảnh cổ trang tuy không phải là tài liệu lịch sử chính thống, nhưng lại là công cụ truyền tải văn hoá mạnh mẽ, có khả năng chạm đến số đông công chúng. Chính vì thế, việc tái hiện yếu tố lịch sử trong phim cần được chú trọng, đặc biệt là sự chính xác về mặt trang phục, để tránh gây hiểu lầm hoặc xuyên tạc.

Trong bối cảnh lịch sử từng có sự giao thoa văn hoá – từ ảnh hưởng của nhà Nguyên đến mối quan hệ giao thương giữa nhà Minh và Triều Tiên – trang phục giữa các quốc gia này cũng có sự du nhập, vay mượn lẫn nhau, dẫn đến một số điểm tương đồng.

Do đó, vai trò của các ê-kíp làm phim là phải nghiên cứu kỹ lưỡng những điểm khác biệt này, nhằm khắc hoạ đúng đắn dựa trên bằng chứng lịch sử cụ thể. Việc này không chỉ giúp phim tránh gây tranh cãi mà còn tạo cơ sở vững chắc để bảo vệ quan điểm nếu có tranh luận xảy ra. Bên cạnh những trường hợp khó phân định như trường hợp võng cân đã đề cập, vẫn có không ít lần phim cổ trang Trung Quốc bị chỉ trích vì đưa yếu tố của Hàn phục vào Hán phục một cách thiếu chính xác, khiến khán giả Hàn Quốc ngày càng nhạy cảm hơn với vấn đề này.

bzvn-seonhwa-14-years

Hắc lạp (Heukrip) hay còn gọi là Mũ Gat thịnh hành vào Trung – Hậu kỳ Triều Tiên, mang kiểu dáng trụ hoàn toàn khác với Đại Mạo nhà Minh. Phim Năm Thành Hóa Thứ Mười Bốn (2020) của Trung xuất hiện dạng mũ giống Hắc Lạp gây tranh cãi, là một nhầm lẫn lớn đã khiến cho phim chịu phản ứng gay gắt từ khán giả Hàn, nhất là khi Hắc Lạp/Mũ Gat là niềm tự hào lớn của Hàn Quốc, một phần không thể tách rời của phim cổ trang Hàn. Ảnh: iQiYi

bzvn-seonghwa-14

Cũng trong Năm Thành Hóa Thứ Mười Bốn (2020), chiếc áo đáp hộ của nhân vật bên tay phải cũng gây nhiều tranh cãi. Ảnh: iQiYi

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM:

Harper’s Bazaar Việt Nam

Xem thêm